Cuộc đời và sự nghiệp của nhạc sĩ Văn Cao – Hình mẫu thiên tài trong lịch sử văn nghệ Việt Nam – Người nghệ sĩ tài hoa xuất chúng trong cả ba lĩnh vực Âm nhạc – Hội hoạ – Thơ ca

Nhắc đến Văn Cao, công chúng sẽ nhớ ngay đến một người nghệ sĩ tài hoa bậc nhất, một người nhạc sĩ của nhiều nhạc phẩm rung động lòng người, những sáng tác của ông trở thành một phần trong tài sản tinh thần của biết bao thế hệ người Việt Nam.

Những bản tình ca lãng mạn vào cuối thập niên 30, mang đậm dấu ấn thi ca phương đông kết hợp với nét cổ điển phương Tây trở thành những nhạc phẩm bất hủ vượt thời đại do nhạc sĩ Văn Cao viết nên như: Bến Tàn Thu, Bến Xuân, Suối Mơ, Thiên Thai, Trương Chi,.. hay những khúc ca dịu dàng, đẹp đẽ mà nên thơ về quê hương đất nước như: Làng Tôi, Mùa Xuân Đầu Tiên,… tất cả đều ghi đậm dấu ấn trong lòng người yêu nhạc. Không chỉ là một tài năng âm nhạc, Văn Cao còn viết văn xuôi, làm thơ và vẽ tranh, dù ở lĩnh vực nào ông cũng đều gặt hái được những thành công nhất định. Có thể nói cuộc đời và sự nghiệp của người nghệ sĩ tài hoa ấy gắn liền và hoà trộn với dòng chảy của lịch sử nước Việt nói chung và tân nhạc Việt Nam nói riêng, Văn Cao dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho nghệ thuật, gửi gắm những tâm tư, tình cảm của ông vào từng tác phẩm.

Nhạc sĩ Văn Cao

Văn Cao tên đầy đủ là Nguyễn Văn Cao, sinh ngày 15 tháng 11 năm 1923 tại Lạch Tray (nay là phường Lạch Tray, quận Ngô Quyền), thành phố Hải Phòng nhưng quê gốc ông ở tỉnh Nam Định. Văn Cao xuất thân trong một gia đình viên chức, cha ông vốn là giám đốc nhà máy nước Hải Phòng.

Lúc nhỏ, Văn Cao học trường tiểu học Bonnal (nay là Trường Trung học phổ thông Ngô Quyền, Hải Phòng), lên trung học ông học tại trường dòng Saint Josef, cũng là nơi ông bắt đầu học âm nhạc.

Năm 1938, gia đình Văn Cao bị sa sút, ông phải bỏ học khi mới 15 tuổi, sau khi kết thúc năm thứ hai bậc thành trung. Ông xin đi làm điện thoại viên ở sở Bưu điện tại Hải Phòng, nhưng được một tháng thì bỏ việc.

Cuối thập niên 30, tân nhạc Việt Nam bắt đầu manh nha ra đời. Khi đó ở Hải Phòng tập trung nhiều nhạc sĩ tiên phong như: Đinh Nhu, Lê Thương, Hoàng Quý,… lúc này Văn Cao tham gia vào nhóm Đồng Vọng của Hoàng Quý cùng với Tô Vũ, Canh Thân, Đỗ Nhuận,.. và bắt đầu sáng tác ca khúc đầu tay mang tên “Buồn Tàn Thu” khi ông vừa tròn 16 tuổi. Bên cạnh đó, cùng với nhóm Đồng Vọng, ông sáng tác thêm một số ca khúc hướng đạo mang không khí vui tươi khác như: Gò Núi, Gò Đống Đa, Anh Em Khá Cầm Tay,…

Nhạc sĩ Văn Cao

Cũng trong thời niên thiếu khi còn ở Hải Phòng, Văn Cao làm quen với Phạm Duy – khi đó là ca sĩ trong gánh hát Đức Huy. Chính Phạm Duy là người đã đưa ca khúc “Buồn Tàn Thu” của Văn Cao đến với công chúng, giúp ca khúc trở nên phổ biến.

Có thể nói trong sự nghiệp âm nhạc của Văn Cao được chia làm hai mảng chính là: tình ca và hùng ca.

Trong giai đoạn sáng tác đầu tiên của sự nghiệp âm nhạc, cũng giống như những nhạc sĩ tiền chiến khác, Văn Cao viết các nhạc phẩm trữ tình, ít bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa lãng mạn Pháp mà mang nặng âm hưởng phương Đông. Đó là những ca khúc như Buồn Tàn Thu, Thu Cô Liêu và Suối Mơ.

Bên cạnh chủ đề sáng tác là mùa thu, Văn Cao cũng viết hai ca khúc nổi tiếng khác về mùa xuân là Cung Đàn Xưa Và Bến Xuân. “Bến Xuân” ban đầu có sự tham gia của nhạc sĩ Phạm Duy, nhưng về sau Văn Cao viết lại lời mới cho ca khúc này và đặt tên là Đàn chim Việt. Những ca khúc đầu tay của ông đều gặt hái được thành công và trở nên phổ biến thời bấy giờ.

Nhạc sĩ Văn Cao

Nhưng nổi tiếng nhất trong các tình khúc của Văn Cao phải kể đến là Thiên Thai và Trương Chi. Bản “Thiên Thai” được nhà xuất bản Tinh Hoa ở Huế in năm 1944, lời bài hát được đề là của Văn Cao, Hoàng Thoái. Thiên Thai có tới 94 khuông nhạc, vừa mang tính trường ca, vừa mang tính nhạc cảnh. Thiên Thai còn được dùng làm nhạc nền của bộ phim “Người Mỹ Trầm Lặng”  được thực hiện năm 2001. Giống như Thiên ThaiTrương Chi cũng dựa trên một tích truyện cổ nhưng đây không phải là một truyện ca mà mang tính tự sự. Hình ảnh Trương Chi trong bài hát thường được người đời liên tưởng tới hình ảnh của chính Văn Cao.

Năm 1942, Văn Cao rời Hải Phòng lên Hà Nội theo lời khuyên của Phạm Duy. Tại đây, ông thuê một căn gác nhỏ số 171 phố Mongrant (nay là 45 Nguyễn Thượng Hiền) và theo học dự thính tại trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Trong thời gian này, ông hay vẽ tranh, làm thơ, viết truyện đăng trên “Tiểu thuyết Thứ Bảy”.

Nhạc sĩ Văn Cao

Cuối năm 1944, Văn Cao gặp lại Vũ Quý – một cán bộ Việt Minh mà ông từng quen biết trước đó. Vũ Quý thuyết phục Văn Cao cùng tham gia Việt Minh với nhiệm vụ đầu tiên là sáng tác một hành khúc. Và “Tiến Quân Ca” đã ra đời từ hoàn cảnh đó, hành khúc này được in trên trang văn nghệ của báo Độc Lập vào tháng 11 năm 1944. Đến ngày 13 tháng 8 năm 1945, “Tiến Quân Ca” được duyệt làm quốc ca của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà.

Sau tháng 8 năm 1945, Văn Cao làm phóng viên của báo Lao động.

Từ năm 1946 đến năm 1948, Văn Cao tích cực hoạt động cách mạng. Cuối năm 1949, ông phụ trách “Đoàn nhạc sĩ Việt Nam”. Trong thời kỳ này, Văn Cao sáng tác một số ca khúc nổi tiếng như: Làng Tôi (1947), Ngày Mùa (1948), Tiến Về Hà Nội (1949)… Và đặc biệt là Trường Ca Sông Lô (1947) ca khúc này đã ghi đậm dấu ấn trong lịch sử tân nhạc. Nhạc sĩ Phạm Duy viết: “Đó là tác phẩm vĩ đại… chẳng thua bất cứ một tuyệt phẩm nào của nhạc cổ điển Tây phương… Bài này đánh dấu sự trưởng thành của Tân nhạc”. Cũng theo ý kiến của nhạc sĩ Phạm Duy, “Trường Ca Sông Lô” là đỉnh cao của nhạc kháng chiến nói riêng, của tân nhạc Việt Nam nói chung và Văn Cao là “cha đẻ” của hùng ca, trường ca Việt Nam.

Nhạc sĩ Văn Cao

Sau hiệp định Geneve 1954, Văn Cao trở về Hà Nội và làm việc cho Đài phát thanh, giai đoạn này ông rất ít sáng tác.

Năm 1955, ông bắt đầu viết bài cho đặc san Giai Phẩm. Tháng 2 năm 1956, bài thơ “Anh Có Nghe Không” của ông được đăng trên Giai phẩm mùa xuân. Văn Cao cùng với các văn nghệ sĩ của hai tờ báo Nhân Văn và Giai Phẩm lúc ấy chủ trương đòi hỏi tự do văn nghệ và sáng tác. Đến tháng 12 năm 1956, cả hai tờ báo đó đều bị đình bản.

Tháng 7 năm 1958, Văn Cao phải đi học chính trị, giai đoạn đó tên tuổi của ông hầu như không còn xuất hiện trên các tạp chí văn nghệ ở Hà Nội. Những năm sau, ông làm nhiều công việc khác nhau như: viết nhạc không lời cho các truyện phim và truyện kịch, trang trí sân khấu cho các đoàn kịch, vẽ quảng cáo cho các báo, vẽ nhãn diêm… Các tác phẩm âm nhạc của ông trừ bài “Tiến Quân Ca” đều không được trình diễn ở miền Bắc. Nhưng ở miền Nam, các ca sĩ hàng đầu của Sài gòn lúc bấy giờ như Thái Thanh, Khánh Ly, Hà Thanh vẫn trình diễn và ghi âm nhạc phẩm của ông.

Nhạc sĩ Văn Cao

Đến cuối năm 1975, Văn Cao viết “Mùa Xuân Đầu Tiên” và ca khúc được đăng ngay lần đầu tiên trên báo Sài Gòn Giải Phóng số mừng xuân Bính Thìn, ngoài ra ca khúc cũng được dịch lời và in ở Nga.

Ngoài tài năng âm nhạc, Văn Cao còn thể hiện sự tài hoa của mình trong lĩnh vực thơ ca và hội hoạ.

Trong lĩnh vực thơ ca, độc giả Việt biết đến Văn Cao với những vần tự sự về chính cuộc đời ông, về quê hương, về cuộc sống tự do với bạn bè. Hơn hết người đời nhớ đến những vần thơ đau thương nhất của ông về cuộc sống cùng cực của người dân nghèo nơi xóm ả đào, nẻo nhà ga, lề đường, góc chợ. Văn Cao cho rằng “người làm thơ phải đi tìm những tư tưởng, cảm xúc và cảm giác trong thực tế ở những con người đang hàng ngày túi bụi xây dựng”.

Nhạc sĩ Văn Cao

Ông viết bài thơ đầu tiên “Một Đêm Đàn Lạnh Trên Sông Huế” vào năm 1940 nhân một chuyến vào Nam có ghé qua Huế và tiếp theo là: “Chiếc Xe Xác Qua Phường Dạ Lạc”, “Bến Ngự Trên Thương Cảng”, “Ngoại Ô Mùa Đông Năm 1946”, “Những Người Trên Cửa Biển”, “Với Nguyễn Huy Tưởng”, “Với Nguyên Hồng”…, những vần thơ của ông đã để lại trong lòng độc giả nhiều thế hệ những dấu ấn đặc biệt.

Nhà thơ Vũ Quần Phương từng viết về thơ ca của Văn Cao như sau: “Tôi rất phục cách dùng chữ trong thơ Văn Cao, bởi vì chữ ông dùng không câu nệ vần điệu, không dùng những chữ quen mà toàn dùng những chữ mới. Nó vừa dễ hiểu nhưng để ngẫm hết ý thì lại khó. Có bài Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc viết năm 1945 về nạn đói khiến người ta nhớ mãi. Còn những bài viết theo không khí tiền chiến thì được xếp vào những bài thơ hàng đầu của tiền chiến.”

Trong lĩnh vực hội họa, ông là một họa sĩ sử dụng cọ và màu cũng sắc sảo không thua gì các họa sĩ chuyên nghiệp. Văn Cao đã có những bức tranh minh họa, những bìa sách và nhiều bức sơn dầu nổi tiếng. Với lối vẽ tranh sơn dầu bằng hình thức và nội dung mới, bức họa đầu tay “Cuộc khiêu vũ của những người tự tử” (Le Bal Aux Suicidés)  được Văn Cao trưng bày tại Phòng triển lãm Duy nhất (Hà Nội-1944) đã làm giới mỹ thuật ngạc nhiên về bút pháp và màu sắc, bức hoạ đã gây chấn động dư luận một thời. Năm 1943, 1944 Văn Cao xuất hiện hai lần trong triển lãm Salon Unique được tổ chức tại nhà Khai Trí Tiến Đức, Hà Nội với các bức tranh sơn dầu: Cô Gái Dậy Thì, Sám Hối, Nửa Đêm.

Nhạc sĩ Văn Cao

Nhà phê bình mỹ thuật Thái Bá Vân nhận xét: “Ở Văn Cao tiếng vọng hoài niệm như một vẻ đẹp có thẩm mỹ siêu thực, theo tôi là một ẩn hiện di truyền lác đác trong cả cuộc đời nghệ sĩ đẹp đẽ của anh… Nhưng cái nhìn hội họa ở anh có địa vị dẫn đường và chi phối: Chính Văn Cao và vài ba người nữa ( Bùi Xuân Phái, Sỹ Ngọc, Dương Bích Liên, Nguyễn Sáng,…) vào những năm 60 đã mở hướng thẩm mỹ mới cho minh họa và đồ họa… Có thể nói Văn Cao đã lập được một trường phái minh họa và bìa sách. Nhiều minh họa của anh trên báo Văn Nghệ phải gọi là xuất sắc… Nếu âm nhạc, thơ ca là một bản thể tươi tốt của anh, thì hội họa là một tâm thức sâu sắc. Văn Cao có cái nhạy bén về cảm xúc tinh tường trong quan sát…”.

Với những tài năng nghệ thuật đa dạng mang tính tổng hợp cao giữa thơ ca – âm nhạc – hội hoạ, Văn Cao được nhiều người xem là hình mẫu thiên tài trong lịch sử văn nghệ Việt Nam. Những tác phẩm mà ông để lại cho đời mang những giá trị nhất định, vì thế nhiều hoạt động tri ân người nghệ sĩ tài hoa này được diễn ra.

Năm 1989, một bức ảnh của nhạc sĩ Văn Cao đang ngồi trầm tư bên chiếc đàn dương cầm của ông được tạp chí National Geographic đăng tải. Cũng chính tấm hình này sau đó đã tạo ra cảm hứng để nhà soạn nhạc đương đại người Mỹ Robert Ashley sáng tác nên bản nhạc solo cho piano mang tên Van Cao’s Meditation vào năm 1992.

Nhạc sĩ Văn Cao

Trong lĩnh vực điêu khắc, năm 2002 một bức tượng bán thân của Văn Cao được đặt trong khuôn viên trường Trung học Văn hóa – Nghệ thuật Hải Phòng.

Trong lĩnh vực nhiếp ảnh, nhà nhiếp ảnh Nguyễn Đình Toán là người đã sở hữu một bộ ảnh với số lượng lớn về Văn Cao do chính ông tự tay chụp trong những lần đến thăm người nghệ sĩ tài hoa này.

Trong lĩnh vực phim ảnh, có 2 bộ phim tài liệu – ca nhạc về Văn Cao là Văn Cao – Giấc mơ một đời người (1992) và Văn Cao – Buổi sáng có trong sự thật (1995) do đạo diễn Đinh Anh Dũng thực hiện.

Trong lĩnh vực văn học, nhà nghiên cứu âm nhạc và văn học Nguyễn Thuỵ Kha cho xuất bản cuốn tiểu thuyết chân dung mang tên Văn Cao – Người đi dọc biển (Nhà xuất bản Phụ nữ, 2011).

Ngày 10 tháng 7 năm 1995, sau một thời gian mắc bệnh ung thư phổi, Văn Cao đã ra đi mãi mãi. Tuy cuộc đời của một người nghệ sĩ tài hoa đã khép lại nhưng những tác phẩm nghệ thuật ông để lại cho đời vẫn còn sống mãi với thời gian.

Thoixua biên soạn

Viết một bình luận