Câu chuyện li kì về bộ ấn kiếm quý giá từng khiến vua Bảo Đại và con trai kiện nhau

Bảo vật hơn trăm năm tuổi

Dưới chế độ quân chủ, ấn kiếm là những vật tượng trưng cho quyền lực tối thượng của bậc vua chúa. Ấn có nhiều loại, đúc bằng vàng, bằng ngọc… và gọi chung là bảo tỷ.

Dưới thời Nguyễn (1802 – 1945), bảo tỷ có hơn 20 chiếc; mỗi chiếc đều có công năng và ý nghĩa riêng.

Cận cảnh bộ ấn Hoàng đế chi bảo được đúc bằng vàng, nặng gần 11kg. (Ảnh tư liệu).

Theo sách Khâm định Đại Nam Hội điển Sự lệ, triều Nguyễn có những bảo tỷ như Ấn Ngự tiền chi bảo dùng để đóng vào các chỉ dụ bình thường; Ấn Văn lí mật sát dùng để đóng vào các chỉ dụ, sớ chương đã có tẩy xóa hoặc thêm vào những chỗ giáp nhau của 2 tờ văn bản quan trọng.

Ấn Sắc mệnh chi bảo dùng trong việc ban cấp sắc mệnh, sắc cáo cho các quan văn võ và chiếu văn phong tặng các thần, người; Ấn Chế cáo chi bảo dùng đóng các chiếu văn bảo và ban cấp chiếu lệnh sai phái quan viên…

TS Phan Thanh Hải – Giám đốc Sở VH-TT tỉnh Thừa Thiên Huế (nguyên GĐ Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế), cho biết, trong số 20 chiếc bảo tỷ đúc giai đoạn đầu thời Nguyễn, có 6 chiếc đúc thời Gia Long và 14 chiếc đúc dưới thời Minh Mạng.

“Chiếc ấn quan trọng nhất, biểu tượng cho Hoàng đế là ấn Hoàng đế chi bảo. Đây chính là chiếc ấn mà vị vua cuối cùng của triều Nguyễn đã trao cho đại diện chính quyền cách mạng tại quảng trường Ngọ Môn vào ngày 30/8/1945”, TS Phan Thanh Hải cho biết.

Ấn Hoàng đế chi bảo được đúc bằng vàng ròng vào ngày 4 tháng 2 năm Minh Mạng thứ 4 (tức ngày 15/3/1823). Đây là chiếc bảo ấn lớn và đẹp nhất của triều Nguyễn.

Ấn đúc hình vuông, quai ấn là một con rồng uốn khúc, đầu ngẩng cao, mắt nhìn thẳng về phía trước. Đỉnh đầu rồng khắc hình chữ Vương, kỳ (vây lưng) dựng đứng, đuôi cũng dựng đứng, vây đuôi uốn cong về phía trước; 4 chân rồng đúc rõ 5 móng, tư thế chống chân xuống mặt ấn rất vững vàng.

Năm 1952 tại Đà Lạt, thực dân Pháp trao trả ấn kiếm cho cựu hoàng Bảo Đại.

Mặt dưới của ấn khắc 4 chữ triện Hoàng đế chi bảo. Mặt trên của ấn, phía 2 bên quai khắc nổi 2 dòng chữ: Minh Mạng tứ niên nhị nguyệt sơ tứ nhật cát thời chú tạo (đúc vào giờ tốt ngày mồng 4 tháng 2 năm Minh Mạng thứ 4).Dòng chữ thứ 2 là Thập thành hoàng kim, trọng nhị bách thập lạng cửu tiền nhị phân (đúc bằng vàng, trọng lượng 280 lạng 9 chỉ 2 phân. Nếu tính 27 lượng tương đương 1kg, thì chiếc ấn này nặng khoảng 10,7kg.

Theo quy định của triều Nguyễn, ấn Hoàng đế chi bảo được dùng khi “gặp khánh tiết ban ơn, đại xá thiên hạ cũng là các cáo dụ thân huân, đi tuần thú các nơi để xem xét các địa phương, mọi điển lễ long trọng ấy và ban sắc, thư cho ngoại quốc…”.

Như vậy, kể từ khi đúc ra đến khi trao cho chính quyền cách mạng, ấn Hoàng đế chi bảo đã có 122 tuổi. Khác với chiếc ấn trên, thanh kiếm đi kèm với nó lại có niên đại khá muộn khi được làm từ thời vua Khải Định.

Theo ảnh tư liệu, thanh bảo kiếm trên được làm theo kiểu trường kiếm. Toàn bộ chiều dài, kể cả vỏ kiếm khoảng hơn một thước tây. Chuôi kiếm nạm ngọc; lưỡi kiếm có lẽ bằng thép tốt; vỏ kiếm bằng vàng.

Sự lưu lạc của báu vật cung đình

Trên nền đài lầu Ngũ Phụng cửa Ngọ Môn (Kinh thành Huế) vào chiều ngày 30/8/1945, trước mặt hơn 5 vạn người dân xứ Huế, Hoàng đế Bảo Đại – vị vua cuối cùng của triều Nguyễn, đã trao bộ ấn Hoàng đế chi bảo và kiếm cho chính quyền cách mạng.

Hình ảnh tái hiện lễ thoái vị, trao ấn kiếm cho chính quyền cách mạng của vua Bảo Đại. Ảnh: Bảo tàng Hồ Chí Minh tỉnh Thừa Thiên Huế

Thay mặt chính phủ cách mạng, ông Trần Huy Liệu đã tiếp nhận ấn kiếm và gắn huy hiệu công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho cựu hoàng Bảo Đại.

Ngay ngày hôm sau, bộ ấn kiếm được đem ra Hà Nội để kịp dự lễ độc lập vào ngày 2/9/1945.

Trong cuốn “Hỏi đáp về triều Nguyễn và Huế xưa”, ông Nguyễn Đắc Xuân – Nhà nghiên cứu văn hóa Huế, cho rằng, khi thực dân Pháp quay trở lại xâm lược Việt Nam (tháng 9/1945) và đưa quân ra thủ đô vào cuối năm 1946, đơn vị làm nhiệm vụ cất giữ bộ ấn kiếm trên đã đem giấu chúng vào vách một ngôi chùa cổ ở ngoại thành Hà Nội, trước khi rút lên Việt Bắc.

Nhưng trớ trêu thay, sau đó, khi lính Pháp đập phá chùa để lấy gạch xây đồn bốt, chúng lại phát hiện ra bộ ấn kiếm trên.

Ngày 3/3/1952, tại Đà Lạt, thực dân Pháp đã tổ chức một buổi lễ khá long trọng để trao lại ấn kiếm cho cựu hoàng Bảo Đại – lúc này là “Quốc trưởng” của một chính phủ bù nhìn do Pháp dựng lên.

Năm 1953, để bảo vệ cho bộ ấn kiếm trên được an toàn, cựu hoàng Bảo Đại đã ủy quyền cho bà Mộng Điệp mang sang Pháp, trao cho hoàng hậu Nam Phương (vợ vua Bảo Đại) và hoàng tử Bảo Long.

“Sau khi bà Nam Phương mất (năm 1963), bộ ấn kiếm này do Bảo Long quản lý và ông đã gửi chúng tại két sắt của Ngân Hàng Châu Âu (Union des Banques Européennes).

Cũng vì bộ ấn kiếm này mà hai cha con Bảo Đại – Bảo Long đã kiện cáo nhau rất phức tạp để giành quyền sở hữu. Kết quả là tòa án đã xử cho Bảo Đại được giữ chiếc ấn còn con trai ông được giữ chiếc kiếm.

Nghe nói rằng, gần đây, vì túng tiền nên vị hoàng tử Bảo Long đã bán mất cây kiếm trên. Còn chiếc ấn, sau khi Bảo Đại qua đời, nó đã lọt vào tay bà đầm Monique Baudot – bà vợ Tây mà ông (cựu hoàng Bảo Đại – PV) cưới năm 1982”, tài liệu nghiên cứu của TS Phan Thanh Hải cho biết.

Bộ ấn kiếm cuối cùng và cũng có thể xem là bộ ấn kiếm quý giá nhất của triều Nguyễn lẽ đúng ra phải thuộc về quyền sở hữu của nhân dân Việt Nam. Thế nhưng, trên thực tế, nó cùng với vô số các bảo vật khác vẫn đang lưu lạc xứ người, chờ cơ hội để quay về cố hương.

Theo Quang Thành – Phan Thanh Hải/Vietnamnet

1 bình luận về “Câu chuyện li kì về bộ ấn kiếm quý giá từng khiến vua Bảo Đại và con trai kiện nhau”

Viết một bình luận