Cuộc đời và sự nghiệp của “quái kiệt” Trần Văn Trạch (1924-1994)

Trần Văn Trạch là một nghệ sĩ đa tài của làng nghệ thuật miền Nam trước 1975. Hầu như tất cả những người trong giới nghệ sĩ Sài Gòn đều ít nhất 1 lần được làm việc với ông. Trần Văn Trạch là một ca sĩ, nhạc sĩ, diễn viên, là trưởng đoàn nhạc và là người đầu tiên tổ chức đại nhạc hội và là một trong những bầu sô đầu tiên của Việt Nam.

Thế hệ nghe nhạc sau này có thể ít biết về Trần Văn Trạch và những tác phẩm của ông, vì ông hoạt động sôi nổi nhất là vào những lúc sơ khai của tân nhạc Việt Nam hồi thập niên 1940, 1950 với những ca khúc hài hước do chính ông sáng tác như: Chiếc Đồng Hồ Tay, Tai Nạn Téléphone, Chuyến Xe Lửa Mồng Năm… Đặc biệt ông đã sáng tác và hát bài “Xổ Số Kiến Thiết Quốc Gia”. Nhờ bài hát này, tên tuổi ông càng được nhiều người biết đến.

Với mái tóc dài cùng giọng ca trầm ấm, cộng thêm phong thái biểu diễn mới lạ, vui nhộn, độc đáo… ông được khán giả, báo chí trước 1975, phong tặng danh hiệu “quái kiệt”.

Click vào hình để nghe giọng hát Trần Văn Trạch với các nhạc phẩm thu âm trước 1975

THỜI THƠ ẤU

Nghệ sĩ Trần Văn Trạch tên thật là Trần Quang Trạch, sinh năm 1924 tại làng Đông Hòa, ở Mỹ Tho, trong gia đình có rất nhiều người biết về nhạc, nhất là nhạc cổ.

Ông cố của ông tên là Trần Quang Thọ, vốn là một nghệ nhân nổi tiếng trong ban nhạc cung đình Huế. Khoảng năm 1860, ông Thọ xin từ nhiệm và di cư vào Nam. Ông nội của Trần Văn Trạch là Trần Quang Diệm, xưa được gởi ra Huế để học đờn tỳ bà trong thành nội. Cha của Trần Văn Trạch là Trần Quang Triều, biệt danh là Bảy Triều, nổi tiếng trong giới cổ nhạc qua tiếng đờn kìm lên theo dây Tố Lan tự sáng chế ra.

Ông Trần Quang Triều có ba người con. Người con cả là Trần Văn Khê (1921-2015), cựu giáo sư dân tộc nhạc học, một nhà chuyên môn về nhạc cổ truyền Á châu, sinh sống 55 năm tại Paris và ngoại ô. Kế đến là Trần Văn Trạch (1924-1994), từ trần tại Paris năm 1994. Người con gái út là Trần Ngọc Sương (1925 – ) đã có một thời nổi tiếng lấy biệt hiệu là Ngọc Sương, sau đổi lại là Thủy Ngọc trong những năm 1948-50, và hiện sống tại Montréal, xứ Canada.

3 anh em Trần Văn Khê – Ngọc Sương – Trần Văn TrạchTừ nhỏ Trần Văn Trạch đã sống với môi trường âm nhạc trong suốt khoảng thời ấu thơ tại làng Vĩnh Kim, làng Đông Hòa, làng Bình Hòa Đông của tỉnh Mỹ Tho, miền Nam Việt Nam. Từ nhỏ ông đã rất có khiếu về nhạc, học đánh đờn kìm và đờn tỳ bà rất sành. Lại có giọng hát ấm êm ca vọng cổ mùi không thua gì nghệ sĩ Năm Nghĩa thời đó. Tuy biết về cổ nhạc nhưng ông lại thích tân nhạc hơn.

Thời gian này phong trào phát động nhạc mới được giới trẻ theo một cách mạnh mẽ. Trần Văn Trạch theo học chữ ở Collège de Mytho (trường trung học Mỹ Tho) cho tới năm 1942 thì rời ghế nhà trường. Tuy ở trong gia đình nhạc sĩ, nhưng lại là người thích buôn bán làm ăn, nên Trần Văn Trạch đã lập ra lò làm chén ở Vĩnh Kim. Sau một vài năm buôn bán nhưng không thành công, ông bỏ nghề lên Saigon tìm việc sinh sống.

DANH TỪ “ĐẠI NHẠC HỘI” XUẤT HIỆN

Khoảng năm 1945, sau khi Nhật đầu hàng, Pháp trở lại Việt Nam, những phòng trà nho nhỏ mở cửa trở lại. Ông bắt đầu tìm kiếm được một phòng trà nhỏ (loại salon de thé) ở đường Lagrandière (nay là đường Lý Tự Trọng).

Ban đầu ông làm hoạt náo và hát tại dancing Théophile ở vùng Dakao từ năm 1947-1948. Thời gian sau này ông có sáng tác và trình diễn nhiều bài nhạc hài hước nổi tiếng. Nhưng các bản nhạc hài hước đầu tiên không phải do Trần Văn Trạch sáng tác mà là của cố nhạc sĩ Lê Thương.

Nhạc sĩ Lê Thương được nhiều người biết qua bài Thằng Cuội, Hòn Vọng Phu 1,2,3. Chính nhạc sĩ Lê Thương đã chính thức khơi mào loại nhạc hài hước như bản “Hòa Bình 48” cũng được 2 anh em Trần Văn Khê – Trần Văn Trạch tung ra thị trường với những màn bắt chước các thứ tiếng Anh, Nga, Tàu… Nhạc sĩ Lê Thương có viết năm 1948 một bản nhạc tựa là Làng Báo Saigon do Trần Văn Trạch hát vài lần trên sân khấu nhưng bị chính phủ Pháp cấm.
Trần Văn Khê – Trần Văn Trạch – Lê Thương
Viết lời nhạc có tánh cách chánh trị, nên sau đó những Lê Thương, Trần Văn Trạch, Phạm Duy và Đức Quỳnh đã “bị mời” vô bót Catinat mấy ngày. Đến năm 1949, Trần Văn Trạch thấy rằng tân nhạc bắt đầu thịnh hành. Các nữ ca sĩ như Minh Trang, Ngọc Sương, Ngọc Hà, Tâm Vấn góp mặt trên đài Pháp Á, trên các sân khấu trình diễn tân nhạc. Trần Văn Trạch mới có ý nghĩ “lăng xê” danh từ “đại nhạc hội” để chỉ định những buổi hát bao gồm ca, vũ, nhạc, kịch trong một chương trình văn nghệ. Từ đó trở đi, “đại nhạc hội” được thông dụng cho tới ngày nay. Có lẽ rất ít người biết rằng Trần Văn Trạch là người đầu tiên tổ chức “đại nhạc hội” như vậy.

Sau đó Trần Văn Trạch thấy rằng muốn khuếch trương khía cạnh tân nhạc, chỉ có cách là mang tân nhạc xen kẽ với những màn ảo thuật, xiếc vào những buổi chiếu phim hát bóng, vì lúc đó phim hát bóng rất thịnh hành, người đi coi hát rất đông, thuận tiện cho việc phổ biến tân nhạc Việt lúc đó hãy còn trong giai đoạn phôi thai.

PHỤ DIỄN TÂN NHẠC TRÊN SÂN KHẤU

Sau thế chiến thứ hai, cuộc sống trên thế giới trở lại bình thường. Nền kinh tế bắt đầu tìm lại thế quân bình. Dân chúng bắt đầu đi coi hát, nghe nhạc, có nhiều cách giải trí hơn. Lúc bấy giờ Việt Nam hãy còn là thuộc địa của Pháp. Mà ở xứ Pháp vào thời buổi đó bắt đầu có chuyện phụ diễn tân nhạc hay những màn hát thuật giữa phim thời sự, quảng cáo, và phim chánh. Trần Văn Trạch thấy hình thức đó hay nên mới tìm cách phổ biến hiện tượng đó tại Saigon. Ông cùng với nhạc sĩ Đức Quỳnh hợp tác với nhau, và lựa rạp hát bóng Nam Việt làm nơi thử thách đầu tiên.

Lúc đó vào khoảng năm 1951, được dân chúng thích và yêu cầu, Trần Văn Trạch mới lần lượt phổ biến chuyện phụ diễn tân nhạc tới những rạp hát khác và lần lần làm thành “hệ thống dây chuyền”. Tân nhạc thiếu bài mới để hát, các nhạc sĩ mới đua nhau sáng tác những nhạc phẩm phù hợp với nhu cầu của dân chúng trong thành phố.

Các ca sĩ không thể đem lên sân khấu những ca khúc hùng mạnh đầy màu sắc đấu tranh giặc giã. Nhờ đó mà mới nảy sanh phong trào sáng tác nhạc rất mạnh. Trần Văn Trạch bắt đầu nổi tiếng về tài hài hước và kể chuyện, rồi sang hát một vài bản nhạc diễu để chọc cười khán giả, từ đó một số bản nhạc “diễu” được ông cho ra đời và đi sâu vào lòng dân chúng mãi cho tới ngày hôm nay.

NHỮNG NHẠC PHẨM HÀI HƯỚC CỦA TRẦN VĂN TRẠCH

Trần Văn Trạch có một lối hát mộc mạc, đúng giọng miền Nam để hát, lời lẽ rất đơn giản, không cầu kỳ, màu mè, những từ ngữ được nghe trong đời sống hàng ngày, nhưng chủ đề lấy từ cuộc sống người dân nghèo nên rất dễ làm xúc động người nghe.

Bài hát hài hước đầu tiên được Trần Văn Trạch sáng tác là “Anh Phu Xích Lô” (1951). Về nhạc thì sử dụng âm giai thất cung, với những câu nhạc dễ nhớ được lặp đi lặp lại. Về tiết tấu thì sử dụng nhiều nhịp ngoại, hát nhanh và phải “giựt” theo kiểu swing để cho vui nhộn hơn.

Khi thấy loại nhạc này hấp dẫn người nghe, ông tiếp tục viết thêm một số nhạc phẩm hài hước khác như “Chuyến Xe Lửa Mùng 5” (1952) kể lại chuyện một anh chàng lấy xe lửa về thăm mẹ. Trên xe lửa, để cho qua thì giờ, ngồi đếm cột đèn mà bị người bên cạnh hỏi tới hỏi lui. Đến khi về nhà mới hay mẹ mình đã từ trần. Câu chuyện lúc đầu thì thấy cười. Nhưng kết cuộc là “cười ra nước mắt”.

Trần Văn Trạch và nhạc phẩm hài hước Chuyến Xe Lửa Mùng 5 tại hải ngoại

Cho tới ngày ký hiệp định Genève (1954), Trần Văn Trạch đã viết khá nhiều bài như “Cái Tê-lê-phôn”, “Cái Đồng Hồ Tay”, “Anh Chàng Thất Nghiệp”, “Cây Bút Máy”, “Đừng Có Lo”…

Để bạn đọc biết sơ qua một số bài với âm điệu, xin tạm ghi lại một đoản khúc của một vài bài điển hình như “Cái tê-lê-phôn” được bắt đầu như sau:

Từ đâu nạn đưa tới
Gắn chi cái tê-lê-phôn
Bởi tôi muốn làm tài khôn
Khiến tôi muốn thành ra ma
Không vào Chợ Quán cũng đi Biên Hòa

Trần Văn Trạch hát “Cái Tê-lê-phôn” trước năm 1975

Trong năm 1952, xin nhắc đến hai bản nhạc của Trần Văn Trạch đã được rất nhiều người biết đến mà không phải là nhạc hài hước. Đó là bản “Chiến Xa Việt Nam”, và một bản khác mà hầu hết những người Việt miền Nam sinh sống trước năm 1975 đều thường xuyên được nghe. Đó là bài “Xổ Số Kiến Thiết Quốc Gia”. Trong vòng 23 năm, từ 1952 tới 1975, mỗi tuần tại rạp Norodom (sau đổi thành rạp Thống Nhất), đều phát bản nhạc này mỗi trước khi xổ số.

Xin ghi lại đây lời nhạc bài này:

Kiến thiết quốc gia
Giúp đồng bào ta
Xây đắp muôn người
Được nên cửa nhà

Tô điểm giang san
Qua bao lầm than
Ta thề kiến thiết
Trong giấc mộng vàng

Triệu phú đến nơi
Năm mười đồng thôi
Mua lấy xe nhà
Giàu sang mấy hồi

Mua số quốc gia
Giúp đồng bào ta
Ấy là thiên chức
Của người Việt Nam

Mua số mau lên
Xổ số gần đến
Mua số mau lên
Xổ số… gần… đến.

Mời bạn nghe lại bài này qua giọng hát Trần Văn Trạch (click vào hình để nghe)

Bài “Chiến Xa Việt Nam” (1952) đã được nghe nhiều lần thời Đệ nhứt Cộng Hòa. Nữ ca sĩ Bạch Yến lúc còn là em bé Bạch Yến đã hát bài này khi dự thi tuyển lựa tài tử ở Đài Pháp Á khoảng 1953. Trong những kỳ đi diễn binh nhân ngày Quốc khánh cũng phát lên bài này. Thời gian trôi qua, những bản nhạc hùng mạnh như Thúc Quân, Xuất Quân, Hận sông Gianh, Chiến xa Việt Nam… mờ dần trong trí nhớ người Việt.

Thời Đệ nhất Cộng Hoà, nhạc sĩ Trần Văn Trạch sáng tác rất ít. Chỉ có một bài ca hài hước được ra đời là bài “Ba Chàng Đi Hỏi Vợ” (1956).

BAN SẦM GIANG TRÊN ĐÀI PHÁT THANH

Những ai ở vào tuổi ngoài 70 có lẽ đều đã có dịp nghe ban Sầm Giang do Trần Văn Trạch đảm trách trên đài phát thanh Pháp Á từ năm 1950 tới 1954. Con sông Sầm Giang ghi nhiều kỷ niệm trong cuộc đời thơ ấu của Trần Văn Trạch, nên khi lập một ban nhạc hay một đoàn hát, ông mới lấy tên con sông này để “dựng bảng hiệu”. Bản nhạc được nghe báo hiệu chương trình ban Sầm Giang trên đài là một bản nhạc do cố nhạc sĩ My Ca sáng tác cho một tiệm mới khai trương tại Vĩnh Kim khoảng 1940, và ông lấy điệu nhạc này và đặt lời mới vô.

Ban Sầm Giang quy tụ một số nhạc sĩ gạo cội như cố nhạc sĩ Võ Thu, Khánh Băng… về sau có cố nhạc sĩ Nghiêm Phú Phi, các ca sĩ nổi tiếng thời 1950 như Trần Văn Trạch, Ngọc Sương, Ngọc Hà, Tôn Thất Niệm, Linh Sơn, Mạnh Phát, Minh Diệu, Túy Hoa, Tâm Vấn. Đến năm 1953, có thêm những bộ mặt mới như nữ kịch sĩ Bích Thuận, ban Thăng Long, Duy Trác, Tùng Lâm, “em bé” Hùng Cường, và “em bé” Bạch Yến.

Trần Văn Trạch và Bạch Yến năm 1963 – người sau này trở thành “cháu dâu” của ông

Với một chương trình hàng tuần về ca, nhạc, kịch, Trần Văn Trạch đã chinh phục thính giả và nhờ đó những chương trình “đại nhạc hội” được nối tiếp và phát triển trên toàn xứ.

Năm 1953, Trần Văn Trạch diễn tại Hà Nội và rất được hoan nghinh, vì bộ môn hài hước không có trên đất Bắc. Ông phải dời ngày về Saigon mấy lượt khiến cho những bạn bè nghệ sĩ đi “đón hụt” mấy lần vì ông “không chịu về”. Sau chuyến đi thành công này, Trần Văn Trạch đã đưa một đoàn nghệ sĩ miền Nam ra diễn ngoài Bắc lấy tên là “Đoàn Gió Nam” được vài lần thì hiệp định Genève (1954) đã chia Việt Nam ra làm đôi.

TRẦN VĂN TRẠCH VỚI ĐIỆN ẢNH

Khi nền điện ảnh Việt Nam đang ở trong giai đoạn phôi thai, khoảng 1955, Trần Văn Trạch cộng tác với hãng phim Mỹ Phương bên Pháp do bà Mỹ Phương (vợ ông Trần Văn Trai, chủ nhà hàng Âu Cơ ở Paris), làm giám đốc sản xuất với sự phụ lực của Phùng thị Nghiệp và Eric Lê Hùng (bấy giờ là đạo diễn nổi tiếng ở Paris).

Hai cuốn phim được quay là “Lòng Nhân đạo” (1955) với Trần Văn Trạch, Kim Cương, Hà Minh Tây thủ vai chánh, và phim “Giọt Máu Rơi” (1956) với Trần Văn Trạch và Kim Cương. Tuy rằng hai cuốn phim này chưa đạt được đúng mức trình độ diễn xuất, nhưng rất được sự ủng hộ của khán giả Việt Nam khi họ lần đầu thấy người Việt đóng phim.

Văn Chung, Phượng Liên, Thành Được, Trần Văn Trạch & Kim Ngọc năm 1969 Đoàn Dạ Lý HươngTrần Văn Trạch sau đó rời hãng Mỹ Phương để cộng tác với người Tàu ở Chợ Lớn để lập hãng phim Việt Thanh, và tự làm đạo diễn cho hai cuốn phim về chuyện cổ tích Việt Nam. Đó là hai cuốn phim “Thoại Khanh Châu Tuấn” (1956) với Kim Cương, Vân Hùng thủ vai chánh, và “Trương Chi Mỵ Nương” (1956) với Trang Thiên Kim và La Thoại Tân.

Năm 1957, Trần Văn Trạch bị bệnh thập tử nhứt sanh suốt cả năm. May nhờ có bác sĩ Phan Văn Đệ cứu sống. Ông từ giã nghề điện ảnh Việt Nam lúc đó bắt đầu bành trướng và phát triển mạnh với những nhà đạo diễn chuyên nghiệp và những tài tử điện ảnh như Lê Quỳnh, Kiều Chinh, Kiều Hạnh…

Tuy Trần Văn Trạch không có tiếp tục ngành điện ảnh, nhưng cũng có đóng góp khá nhiều cho sự hình thành nền điện ảnh Việt Nam tại miền Nam Việt Nam.

GIAI ĐOẠN TỔ CHỨC ĐẠI NHẠC HỘI

Không có một nghệ sĩ Việt Nam nào mà không biết Trần Văn Trạch, đa số ai cũng đã có dịp làm việc chung với ông ít nhứt là một lần trong đời. Có người gọi ông là “Anh Ba”, có người trong lớp nghệ sĩ trẻ gọi là “Chú Ba”. Với những chương trình đại nhạc hội, ông đã có dịp đi khắp các tỉnh, các làng ở miền Nam. Trong thời đệ nhứt cộng hòa (1956-1963), Trần Văn Trạch đã thực hiện nhiều chương trình ca, vũ, nhạc, kịch ngày càng lớn với môt thành phần nghệ sĩ càng ngày càng đông. Rồi Kim Cương, ban Dân Nam, Hoàng Thi Thơ… nhảy vô làng tổ chức đại nhạc hội cho tới tháng 4 năm 75.

Năm 1960, Trần Văn Trạch mới đi sang Pháp tìm những ý tưởng mới. Ở Paris, ông thường xuyên hát tại nhà hàng “La Table du Mandarin”, Paris, quận 1, nơi duy nhứt ở Paris có chương trình văn nghệ Á châu mỗi đêm cho khách Tây phương. Cũng nơi tiệm này do ông Phạm Văn Mười làm chủ, đã được những ca sĩ Việt Nam nổi tiếng thời đó như Thiên Hương, rồi Bạch Yến (lúc sang Pháp từ 1961 tới 1963), và Bích Chiêu (1962-1964), kế tới là nữ nghệ sĩ Phùng Há và Kim Cương (1964-1965) đến hát.

Sau một thời gian lưu lại Pháp khoảng 6 tháng, Trần Văn Trạch trở về Saigon với một tiết mục mới là trò múa rối (marionnettes sur tige) và bản “Chiều Mưa Biên Giới” của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông được hát theo kiểu sound track, có nghĩa là hát thật sự trên sân khấu với dàn nhạc của Pháp thâu sẵn trên băng nhựa. Mời bạn nghe lại ở bên dưới.

Trần Văn Trạch hát Chiều Mưa Biên Giới trước năm 75

Từ năm 1965, khi có quân đội Mỹ vào miền Nam ngày càng đông, những club dành cho lính Mỹ mọc lên như nấm, các ca sĩ hát nhạc trẻ càng thấy nhiều hơn. Trần Văn Trạch đóng vai “ông bầu” để tổ chức những chương trình nhạc trẻ cho lính Mỹ. Trong thời gian này, ông có sáng tác môt vài bản nhạc không được phổ biến cho lắm như bài “Highway 19” đặt theo điệu Long hổ hội, nhạc cổ nhưng trên lời Mỹ và theo nhịp vuông.

Trần Văn Trạch có một người con tên là Trần Văn Trần, từng được hy vọng là một nghệ sĩ đầy hứa hẹn để nối nghiệp cha. Nhưng sau đó Trần Văn Trạch ly dị, người vợ mang con sang Pháp sống từ đó cho đến nay.

TRẦN VĂN TRẠCH SAU NĂM 1975

Sau năm 1975, Trần Văn Trạch không còn giữ chức vụ “quản lý” các nghệ sĩ miền Nam nữa, tạm sống một cuộc đời bình thường, với những chuyến lưu diễn địa phương cùng với một số nghệ sĩ miền Nam còn ở lại lúc đó như Nguyễn Long, tự Long Đất, Quốc Anh.

Cho tới tháng 12 năm 1977, Trần Văn Trạch rời Saigon sang Paris. Từ đó trở đi cho tới ngày từ trần (tháng 4 năm 1994) là 17 năm, nghệ sĩ Trần Văn Trạch từng nổi tiếng là “Quái Kiệt” vẫn âm thầm hoạt động trong văn nghệ. Có một dạo đi đóng kịch với một đoàn hát của Pháp, lưu diễn khắp các tỉnh ở Pháp rồi thỉnh thoảng đi đóng một vài vai phụ trong các phim của Pháp. Rồi ông tạm ngưng làm việc cho Pháp để xoay ra làm nghề khác để sinh sống.

Thời gian này gần như Trần Văn Trạch không sáng tác nữa. Trong 17 năm chỉ có vài bài, có lẽ là do cuộc sống mới ở hải ngoại thúc hối con người ta phải luôn luôn chạy với nhịp sống quá ồ ạt, khiến cho ông lớp phải lo việc đem vợ con sang Pháp rồi lại phải lo kiếm việc làm độ nhựt.

Phạm Duy, Cao Thái, Trần Văn Trạch tại Paris, 1982Tuy nhiên, Trần Văn Trạch cũng có góp mặt vào trong làng tân nhạc Việt ở hải ngoại qua ba cuốn “Hài hước Trần Văn Trạch” (Thúy Nga, Paris, 1982), “Con đường hạnh phúc” (Thanh Lan, 1983), và “Allo, Paris” (Giáng Ngọc, 1986). Về phía phim vidéo, Trần Văn Trạch cũng có làm một cuốn kỷ niệm “Hài hước Trần Văn Trạch” do ông Cử ở quận Cam, Hoa Kỳ thực hiện năm 1983. Ông cũng có góp mặt trong cuốn thi ca nhạc kịch Việt Nam do Hà Phong thực hiện tại Paris năm 1984 với Bích Thuận, Trần Văn Trạch, Trần Quang Hải, Bạch Yến và Hùng Tiến.

Trần Văn Trạch cũng đã có đi diễn cho cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ năm 1983 và 1986, ở Úc châu năm 1984, và thường trực có mặt trong những buổi hát giúp lấy tiền cho những con tàu vớt người di tản. Ở Âu châu từ Anh sang Đức, từ Bắc Âu sang Thụy Sĩ, ông vẫn còn tạo những trận cười qua những màn diễu ăn khách ngày xưa .

Trần Văn Trạch năm 1993 tại vũ trường Ritz của nhạc sĩ Ngọc Chánh

Tháng 4 năm 1994, Trần Văn Trạch từ giã cõi trần sau vài tháng năm nhà thương tại Paris vì bịnh viêm gan. Giáo sư Trần Văn Khê từ Việt Nam trở qua Pháp làm chủ tang lễ với sự hiện diện của rất đông ca nhạc sĩ Việt Nam. Trần Văn Trạch được chôn tại nghĩa trang Cimetière intercommunal de Valenton (Val de Marne), Pháp.

Giáo sư Trần Quang Hải bên mộ chú ruột Trần Văn TrạchVới trên 40 năm trong nghề, từng là người tiên phong trong việc tổ chức nhạc hội, người đã đặt ra danh từ “đại nhạc hội”, người đã góp công vào nền điện ảnh Việt, người duy nhứt của Việt Nam đã ra những bản nhạc hài hước lấy từ những đề tài cảnh khổ của người dân nghèo.

Có thể nói, đối với những người làm văn nghệ, Trần Văn Trạch đã đi vào lịch sử tân nhạc Việt Nam như một số nhạc sĩ đàn anh như Phạm Duy, Lê Thương, Hùng Lân, Hoàng Thi Thơ, Lam Phương, Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh, Lưu Hữu Phước, Hoàng Giác… Có người sáng tác nhạc gợi hứng từ dân ca (Phạm Duy), hùng tráng có tính cách tranh đấu (Lưu Hữu Phước), hay mang màu sắc địa phương miền Nam (Lam Phương), và cũng có người thích khôi hài (Trần Văn Trạch, Lữ Liên).

Sự đóng góp của biết bao nhạc sĩ có tài của miền Nam Việt Nam cần phải được duy trì qua những bài viết, hay những quyển sách ghi lại những tài năm âm nhạc của miền Nam trong giai đoạn 1954-1975. Chỗ đứng của Trần Văn Trạch hoàn toàn riêng biệt trong vườn hoa âm nhạc Việt Nam, và sự đóng góp của ông cho nền tân nhạc Việt Nam sẽ để lại cho thế hệ mai sau một hình ảnh khó kiếm giữa rừng nhạc Việt đầy hoa thơm cỏ lạ.
Nguồn tư liệu của GS-NS Trần Quang Hải

Nguồn Nhacxua.vn

Viết một bình luận